Nghịch lý: Triết học xuất phát từ phương Tây nhưng không xuất hiện trong giáo dục phương Tây! (Phần 1)

Nguồn: Philosophy Now, ngày đăng: 2008

Tác giả: Kristina Pelletier

Biên dịch: Thanh Uyên – Biên tập: Phạm Thủy Tiên

Dựa trên các tiêu điểm gần đây của chúng tôi về giáo dục, Kristina Pelletier đặt ra câu hỏi là tại sao Triết học lại không có chỗ đứng trong các trường công lập của Mỹ.

Triết học không tồn tại trong hầu hết các trường công lập của Hoa Kỳ, và liệu có ai quan tâm đến điều này? Giống như một chiếc giày đã mất từ ​​lâu, rốt cục, thì làm gì có chuyện để nói? Hầu hết mọi người không nhận thấy hoặc không quan tâm đến sự vắng mặt của triết học. Sau tất cả, làm thế nào mà một người có thể bỏ lỡ điều gì đó khi thậm chí nó còn chưa bao giờ là một phần trong trải nghiệm của chính họ? Hoa Kỳ đã quyết định không đưa triết học vào giảng dạy tại các trường công lập từ lâu, sau một báo cáo năm 1893 từ Ủy ban Mười (Committee of Ten), nghĩa đen mà nói thì là mười người đàn ông sẽ quyết định môn học nào được dạy trong trường học. Triết học đã bị loại bỏ.

Nguồn ảnh: Internet

Với niềm tin vững chắc rằng triết học thật sự là một phạm trù quan trọng trong giáo dục, tôi đã cố gắng tìm cách đưa triết học vào giảng dạy tại các trường trung học. Thông qua nghiên cứu sâu rộng và nhiều kinh nghiệm khác nhau, tôi đã xác định được nhiều trở ngại khiến triết học không được giảng dạy một cách hiệu quả. Mục đích của tôi khi viết bài này là:

  1. Gợi ý lý do tại sao triết học ở các trường công lại quan trọng
  2. Mô tả mười trở ngại khiến triết học không được giảng dạy tại các trường
  3. Đưa ra những cách khả thi để vượt qua những trở ngại này.

Tại sao Triết học ở các trường công lại quan trọng

Dù tốt hay xấu thì ban giám hiệu và giáo viên luôn áp đặt kinh nghiệm giáo dục của chính mình vào trường học và lớp học. Với hầu hết mọi người, triết học không liên quan nhiều đến cách giáo dục của họ, thế thì tại sao triết học lại trở nên quan trọng? Nói một cách đơn giản, triết học có nghĩa là một nền giáo dục tốt hơn cho người trẻ, và sau cùng, sẽ là một xã hội tốt đẹp hơn cho tất cả mọi người. Tuy nhiên, các câu hỏi cần được giải quyết nhiều hơn và vì vậy hãy cùng nhau xem xét ba câu hỏi:

  1. Giáo dục công ảnh hưởng đến cá nhân và xã hội như thế nào?
  2. Phương tiện chính và mục đích cuối cùng của giáo dục công là gì?
  3. Triết học là gì?

Giáo dục công lập ảnh hưởng đến cá nhân và xã hội như thế nào? John Dewey cho biết xã hội quyết định phần lớn tương lai của nó bằng cách thức mà xã hội giáo dục những người trẻ tuổi. Không nhiều người phản ứng ngược lại với tuyên bố của Dewey; ngay cả những người Athens và Sparta cổ đại cũng hiểu điều này. Mặc dù họ có những cách tiếp cận rất khác nhau, nhưng cả hai đều sử dụng giáo dục để xã hội hóa các công dân trẻ vào hiện trạng văn hóa. Sparta sử dụng giáo dục để sản xuất binh lính và duy trì một trật tự xã hội chuyên chế-quân phiệt. Athens sử dụng giáo dục để giảng dạy nghệ thuật và trang bị cho học sinh của mình quyền công dân, hòa bình và chiến tranh.

Công tác xã hội hóa giáo dục diễn ra mạnh mẽ như thế nào? Vào khoảng năm 400 trước Công nguyên, một người đàn ông có vẻ ngoài hài hước tên là Socrates đã gây khó chịu cho xã hội Athen khi thách thức các phương pháp giáo dục của họ. Ông thúc đẩy sự nhạy cảm, kiến ​​thức, niềm tin và giá trị của người dân và thanh niên. Socrates cầu khẩn họ đặt câu hỏi và suy ngẫm về kiến ​​thức, định kiến, giả định tôn giáo và ảo tưởng xã hội vốn đã lỗi thời của họ. Đứng ở quảng trường công cộng, ông ra hiệu cho họ phá bỏ xiềng xích lòng trung thành mù quáng đối với giáo điều vốn dĩ.

Ít nhất phải nói rằng cách tiếp cận “giáo dục đại chúng” của Socrates không được đánh giá cao. Nhiều người coi Socrates là mối đe dọa đối với lợi ích của thành phố, và Socrates trở thành vật tế thần điển hình cho thời kỳ hỗn loạn. Socrates có niềm tin rằng nếu các cá nhân học cách suy nghĩ cho chính mình, họ sẽ tự nhiên tìm kiếm lợi ích cao nhất cho bản thân, người khác và xã hội. Thật không may, người Athens không mấy tin tưởng vào đường lối của ông và kết án Socrates tử hình vì tội làm “suy đồi tuổi trẻ” – cơ bản mà nói là vì ông đã dạy những người trẻ tuổi làm thế nào để suy ngẫm và tìm ra nguyên lý hoạt động của vấn đề (philosophize).

Hơn 2.400 năm sau, mối quan hệ giữa giáo dục và triết học cũng không khá hơn là bao nhiêu. Các xã hội vẫn sử dụng giáo dục để xã hội hóa những người trẻ tuổi trong khi vẫn thể hiện sự kháng cự đối với triết học. Trong trường học, các công dân trẻ học cách hiểu biết, suy nghĩ, hành động và liên hệ được xã hội chấp nhận. Những bài học này được chuyển giao, thường là thiếu tính phê bình, thông qua các chương trình giảng dạy chính thức (formal curriculum), chương trình giảng dạy ẩn (hidden curriculum) và chương trình giảng dạy thiếu hụt (null curriculum) trong trường học.

Chương trình giảng dạy chính thức là bản kế hoạch thực sự. Nó chỉ rõ học sinh phải học gì, và đôi khi, là cách thức học sinh học những thứ ấy như thế nào. Chương trình học ẩn (hidden curriculum) bao gồm tất cả mọi thứ  liên quan đến giáo dục nhưng nằm ngoài chương trình học chính thức. Ví dụ, “bài học ẩn” được dạy cho học sinh thông qua nội quy của trường, chính sách xếp loại, thái độ của giáo viên, sĩ số lớp học và thực hành giảng dạy. Nó cũng bao gồm các bài học từ kết quả học tập tích cực và tiêu cực không chủ ý khi học sinh được dạy theo chương trình chính thức (ví dụ, phân biệt giới tính có thể được “dạy” qua cách giáo viên đối xử với học sinh nam và nữ trong lớp học, dù kiến thức này không được đưa chính thức vào chương trình giảng dạy – ND). Chương trình giảng dạy thiếu hụt là những gì không được giảng dạy hoặc thậm chí không được đề cập đến trong giáo dục. Đây là nơi mà triết học thường được quy về. Những gì bị bỏ qua trong trường học – như những gì được dạy – sẽ ảnh hưởng về lâu về dài đến cách mà học sinh sống cuộc đời của mình.

Hãy để tôi đưa ra một ví dụ để minh họa mối quan hệ giữa chương trình chính thức, ẩn và thiếu hụt. Một giáo viên trung học được học khu của mình yêu cầu dạy về những người lập quốc của nước Mỹ (America’s Founding Fathers). Chương trình học chính thức bao gồm các giáo án dạy về George Washington, Thomas Jefferson và Benjamin Franklin. Các bài học vẽ nên tính cách của mỗi “người cha lập quốc” bằng một thứ màu hồng đến mức thần thánh. Tuy nhiên, giáo viên lại không nhận thức được chương trình giảng dạy ẩn đối với học sinh nữ gốc Phi trong lớp của mình. Em học sinh này “đang phải” học thêm một điều gì đó. Đối với em, ở một độ tuổi dễ bị ảnh hưởng, em có thể ghim vào đầu mình về việc nước Mỹ được thành lập bởi và dành cho những người hoàn toàn khác với bản thân em – cụ thể là những người da trắng. Hơn nữa, giáo viên cũng đang vô tình xây dựng một chương trình giảng dạy thiết hụt bằng cách bỏ qua vai trò của phụ nữ, những người thuộc nhóm thiểu số và nô lệ trong quá trình tạo dựng nên nước Mỹ.

Ví dụ mà tôi đưa ra với mục đích là gợi ý sự ảnh hưởng lẫn nhau rất phức tạp giữa người học và chương trình giảng dạy chính thức, ẩn và thiếu hụt. Nước đi này góp phần to lớn vào việc xã hội hóa những người trẻ tuổi, gây ấn tượng cho họ một cách hiển nhiên về sự hiểu biết, suy nghĩ, hành động và mối quan hệ được xã hội chấp nhận. Học sinh nhận được hàng triệu bài học từ mười hai năm giảng dạy các chương trình chính thức, ẩn và thiếu hụt. Nhưng bằng cách xem xét các phương tiện hiện tại và mục đích của giáo dục công, chúng ta có thể xem xét loại tương lai mà chúng ta có thể đang tạo ra cho chính mình và những người khác. Sau đó, chúng ta có thể tự hỏi bản thân rằng liệu chúng ta có đang đi trên một con đường đúng đắn hay chúng ta có thể làm tốt hơn nữa hay không.

Nhiều người tin rằng mục tiêu chính của các trường học và đại học là trang bị cho con người để sẵn sàng với việc đi làm. Niềm tin thông thường này ám chỉ giáo dục không gì hơn một chương trình đào tạo việc làm dài đằng đẵng và đầy tốn kém. Mục tiêu này đạt được bằng cách đảm bảo cho học sinh học kiến ​​thức cụ thể thông qua sự chuyển tải có hệ thống. Trong việc truyền tải kiến thức  ở mức độ cao, nơi giáo viên cung cấp cho học sinh kiến ​​thức, thì các trường học phụ thuộc rất nhiều vào trò chơi củ cà rốt và cây gậy (games of carrots and sticks). Một hệ thống phức tạp gồm các tiêu chuẩn, đánh giá và trách nhiệm đã trở thành nền tảng của chương trình giáo dục ở hầu hết các trường học. Mục tiêu là đảm bảo rằng tất cả học sinh đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn bằng cách đáp ứng các yêu cầu đánh giá. Những mục tiêu này phải đạt được bằng cách 1) hệ thống hóa và xác định tất cả các tiêu chuẩn học tập mà tất cả học sinh phải đáp ứng, 2) tập trung chủ yếu vào kỹ thuật đọc, toán học và khoa học, vốn có lợi cho việc tiếp nhận kiến ​​thức khách quan và đánh giá kết quả học tập, 3) thiết lập các đánh giá để đo lường về việc liệu học sinh đã đáp ứng các tiêu chuẩn học tập hay chưa, và 4) thực hiện  trách nhiệm giải trình (accountability) thông qua một hệ thống phần thưởng và hình phạt cho học sinh, giáo viên, học khu và tiểu bang, dựa trên điểm đánh giá tổng hợp và phân tách.

Nhưng bằng chứng cho thấy các trường công không thật sự tốt cho hầu hết học sinh hoặc giáo viên ở Mỹ. Gần một phần ba tổng số giáo viên mới đã rời lớp học trong vòng ba năm và gần năm mươi phần trăm trong vòng năm năm. (Xem Ủy ban Quốc gia về Giảng dạy và Tương lai Không có Giấc mơ nào bị từ chối: Lời cam kết với trẻ em Hoa Kỳ, 2003.) Khoảng một phần ba số học sinh vào lớp 9 không tốt nghiệp trung học phổ thông. (Bộ Giáo dục Hoa Kỳ, “Những phê bình được chuẩn trước cho Bộ trưởng Spellings tại Hội nghị thượng đỉnh giáo dục quốc gia của Hiệp hội thống đốc quốc gia về trường trung học”, ngày 27 tháng 2 năm 2005.). Nghiên cứu gợi ý rằng giáo viên và sinh viên lựa chọn việc rời khỏi trường học vì cùng một lý do: mối quan hệ tệ bạc, quá nhiều việc phải làm, sự buồn chán vô cảm, trải nghiệm vô nghĩa và những thói quen chán ngán. (Xem Margaret Diane LeCompte và Anthony Dworkin, Từ bỏ trường học: Học sinh bỏ học và giáo viên sức tàn lực kiệt (Giving Up on School: Student Dropouts and Teacher Burnouts), 1991.)

Triết học là gì?

Từ “triết học” có thể bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ‘Φιλοσοφία’ (‘Philosophia’), có nghĩa là “tình yêu của sự thông thái”. Các triết gia đầu tiên theo đuổi sự thông thái thông qua việc tự hỏi, đặt câu hỏi, thảo luận và tự vấn về bản thân, người khác, xã hội, thiên nhiên, ý tưởng và tất cả mọi thứ. Tuy nhiên, ở đâu đó, khái niệm triết học đơn giản và cởi mở này đã thay đổi thành một thứ gì đó khá phức tạp và có phần hạn hẹp.

Triết học thời nay rất khó định nghĩa, nhưng nhiều người đã thử đưa ra định nghĩa về nó. Ví dụ, trong Lời giới thiệu về triết học (An Introduction to Philosophy) (tr.69) , triết gia người Canada Jacques Maritain đã viết, “Triết học là  thứ khoa học mà nhờ vào đó ánh sáng nguyên thuỷ của nghiên cứu hoặc những nguyên tắc cao nhất của vạn vật được tạo thành – nói cách khác, triết học là khoa học vạn vật, là những căn nguyên đầu tiên của chúng, trong chừng mực nào đó, chúng thuộc về trật tự tự nhiên.” Với những định nghĩa như thế này, không có gì lạ khi mọi người tránh xa triết học.

Thay vào đó, tôi lại thiên về với ý nghĩa ban đầu của triết học là tình yêu của trí tuệ, thứ mời gọi sự tìm hiểu cởi mở và tự do với mục đích tiến tới lợi ích cao nhất dành cho mỗi cá nhân, xã hội và nhân loại. Giá trị của triết học nằm trong nỗ lực hướng tới những mục đích khó nắm bắt này. Sự tiến tới này tạo cơ hội cho sự phát triển về đạo đức, tình cảm, trí tuệ và tinh thần. Triết học thay đổi cách suy nghĩ của chúng ta, và dù tốt hay xấu thì điều này có thể thay đổi toàn bộ trải nghiệm, ký ức, giá trị, ngôn ngữ, niềm tin, lý luận, mong muốn và quan điểm của chúng ta, từ đó ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta, của những người khác và của xã hội. Triết học mang lại cho con người quyền tự do thách thức những cách suy nghĩ và hiểu biết, vốn đã được gắn chặt vào các phương tiện và mục đích cuối cùng của việc học hiện tại.

Một vấn đề nhức nhối trong giáo dục hiện nay là có rất ít hoặc không có sự phấn đấu. Thay vào đó, học sinh được giáo viên và sách giáo khoa cung cấp tất cả những gì chúng cần phải biết và cần phải làm. Những gì mà một đứa trẻ thực sự cần là có nhiều cơ hội hơn để suy ngẫm nhiều hơn về thế giới của mình, đấu tranh hướng tới sự thông thái mà không bị bóp nghẹt bởi hàng triệu thứ xung quanh. Thực hành triết học đòi hỏi về mặt tiêu chuẩn lẫn hoạt động suy ngẫm. Tiêu chuẩn có thể đến từ truyền thống học thuật lâu đời, hoặc từ bất kỳ thứ gì khác, bao gồm cả các dữ kiện được học trong trường học. Tuy nhiên, những tiêu chuẩn triết học không thể cung cấp những hiểu biết sâu sắc về triết học nếu không có suy ngẫm. Đối với Socrates, suy ngẫm bao gồm việc băn khoăn, đặt câu hỏi, thảo luận và đối chiếu. Bằng cách này, triết học cung cấp các phương pháp giáo dục đích thực bằng cách ủng hộ quyền tự do tìm hiểu, đồng thời phát triển nhiều khía cạnh của đời sống nội tâm của một người mà bản thân nó đã là một mục đích đích thực của giáo dục.

Một trong những cách dễ nhất và bổ ích nhất để thay đổi thói quen tồi tệ tiềm ẩn ở trường học là khuyến khích giáo viên và học sinh suy ngẫm. Tuyên bố này được ủng hộ bởi kinh nghiệm của tôi với một nhóm giáo viên ở Maine. Vào mùa hè năm 2005, một nhóm bốn mươi nhà giáo dục đã bắt đầu chương trình lãnh đạo giáo viên kéo dài ba năm. Trong khóa học đầu tiên, họ đã dành nhiều thời gian để tìm hiểu về ý nghĩa của giáo dục, thế nào là “cuộc sống tốt đẹp” và về cách giảng dạy chuyên nghiệp. Họ đọc John Dewey, Aristotle, Plato và các triết gia khác, họp thành các nhóm nhỏ để xem xét và thảo luận một cách nghiêm túc các văn bản liên quan đến trải nghiệm của chính họ. Nhiều người nói rằng khóa học đã dẫn đến sự chuyển đổi về mặt cá nhân và nghề nghiệp, đồng thời mở rộng khả năng của chính họ. Nhiều giáo viên dày dặn kinh nghiệm cho biết, đây là lần đầu tiên họ được khuyến khích tự vấn, đặt câu hỏi, thảo luận và suy ngẫm về cuộc sống nội tâm của họ trong mối quan hệ với việc giảng dạy. Một số mang kinh nghiệm về triết học trở lại lớp học của họ, và bày tỏ sự ngạc nhiên trước sự hưởng ứng nhiệt tình và năng động của sinh viên khi được tạo cơ hội để suy ngẫm. Họ đã được trải nghiệm cách thức chân chính và mục đích của giáo dục, mặc dù chỉ trong thời gian ngắn.

Thật không may, sau lớp học mùa hè này, chương trình trở lại phương pháp truyền thống, không bao gồm triết học hoặc suy ngẫm. Không mất nhiều thời gian để các lớp học bắt đầu lại sự căng thẳng, chán nản và vô nghĩa. Dựa trên nghiên cứu và các cuộc phỏng vấn của tôi, nhiều giáo viên cho biết họ đã nhớ lớp học hè và chân thành hy vọng chương trình sẽ trở lại như ban đầu. Có vẻ như nhiều người lần đầu được trải nghiệm triết học, ít nhất là tiếp cận một cách nghiêm túc, và khi vắng bóng nó, họ nhớ nó. Vậy là vẫn còn hy vọng!

(Còn tiếp)

Leave a comment